Table of Contents
Ngày còn ngồi ở giảng đường đại học, mình từng ấp ủ ước mơ trở thành một dịch giả. Thậm chí cũng từng có thời gian ngắn đi học một khóa dịch thuật nhỏ nhỏ rồi. Thế nhưng chẳng nhớ lý do gì mà ước mơ đó bị trôi dạt theo sóng xô cuộc đời. Chắc là phải đến khi tuổi đời đến gần đầu ba thì mình mới cảm giác được rõ những điều yêu/ ghét của chính mình, và ngôn ngữ luôn ở một vị trí đặc biệt trong tim mình. Mình cũng từng chia sẻ điều này trong một bài viết trước đây, mọi người có thể tìm đọc lại nhé ^^

Gần đây, mình nhận ra bản thân có thể đọc sách tiếng Anh mà bộ não không còn dịch sang tiếng Việt, thế nhưng khi có ai đó nhờ mình dịch lại thì mình lại gặp chút khó khăn trong việc chuyển ngữ hoàn toàn sang tiếng Việt mà không chêm một vài từ tiếng Anh vào. Vậy là mình có ý tưởng làm chiếc series Dịch thuật vu vơ trên chiếc blog không ai biết đến này.
Series này được viết chỉ đơn giản được viết ra dành riêng cho giấc mơ ngày trẻ của chính mình, cũng là cách để mình trau dồi kỹ năng ngôn ngữ của bản thân. Dẫu hiện tại chúng ta có quá nhiều công cụ để chuyển ngữ một cách dễ dàng, thế nhưng cảm giác tự mình đọc, tự mình hiểu, rồi tự mình viết ra vẫn là một trải nghiệm khó tả.
Vì chỉ là sở thích cả nhân, nên mình chỉ dịch những đoạn văn mình góp nhặt ở nhiều nơi, từ đơn giản đến phức tạp.
1. Dịch trích đoạn: Tôi có điều muốn góp ý cho bạn

1.1. Nội dung dịch

Hãy tưởng tượng một vài ngày sau khi bạn hoàn thành một công việc quan trọng, một người đồng nghiệp – ví dụ như sếp, một người cùng cấp, một đồng nghiệp bạn chẳng biết rõ mấy, hay một lãnh đạo cấp cao hơn bạn – đặt ra câu hỏi sau:
- Tôi có thể góp ý cho bạn một chút được không?
Bạn cảm thấy thế nào khi nghĩ đến cảnh này? Đối với nhiều người – không phải tất cả, nhưng với nhiều người trong chúng ta – cái từ “góp ý” gần như có thể ngay lập tức kích hoạt cái phản xạ “chiến đấu hay chạy trốn” , thậm chí ngay cả khi bạn có mối quan hệ tốt với người đang đưa ra góp ý. Có điều gì trong trải nghiệm về việc nhận góp ý có thể làm ta tức khắc trở nên lo lắng, nhạy cảm và coi nhẹ chúng.
Tuy nhiên, những đội ngũ và cá nhân vượt trội so với đám đông – ví dụ như các vận động viên hàng đầu, các nhóm sáng tạo đổi mới và phối hợp với nhau tốt nhất, những người mang đến cho khách hàng, đối tác và khán giả của mình một dịch vụ có ý nghĩa và thậm chí tạo nhiều dấu ấn – biết rõ những ý kiến đánh giá có vai trò quan trọng thế nào để tạo ra văn hóa làm việc hiệu quả và lành mạnh. Họ đón nhận và tích hợp phản hồi vào cách họ làm việc và tương tác với nhau, và xem nó như một nguồn thông tin, cảm hứng và thử thách thiết yếu.
1.2. Giải thích từ vựng trong bài dịch
Mình dựa vào từ điển Collins để đưa ra cách dịch phù hợp
| Từ tiếng Anh | Nghĩa tiếng anh | Giải thích |
| peer | a person who is an equal in social standing, rank, age, etc | peer chỉ những người có cùng tuổi, địa vị,.. Mọi người hay nghe đến cụm peer pressure – tức là áp lực đồng trang lứa. Trong ngữ cảnh công việc thì chúng ta có thể hiểu đó là người cùng cấp với mình |
| rapport | If two people or groups have a rapport, they have a good relationship in which they are able to understand each other’s ideas or feelings very well. | Ở đây mình sẽ học nguyên cụm “have a good rapport with”, nghĩa là có quan hệ tốt với ai đó. Từ này có nghĩa tương đương với cụm to get on well with |
| defensive | Someone who is defensive is behaving in a way that shows they feel unsure or threatened. | Mình biết từ defensive với ý nghĩa mang tính phòng vệ, nhưng không nghĩ nó có thể dùng để mô tả cảm xúc. Từ này đồng nghĩa với thin-skinned nghĩa là nhạy cảm |
| dismissive | If you are dismissive of someone or something, you say or show that you think they are not important or have no value. | Một số từ mình có thể nghĩ đến là khinh bỉ, xem thường hay coi nhẹ |
1.3. Người Việt nói cụm này như thế nào?
Trong đoạn văn trên, có một chỗ mà mình cũng phải suy nghĩ tới lui sao cho dịch thoát ý hơn. Những lúc này mới thấy mình cũng chưa giỏi tiếng Việt lắm đâu. Vì chuyển ngữ không phải dịch từng từ, từng từ một mà làm sao có thể đưa một văn bản ngoại văn thành cách diễn giải của người Việt. Hãy cũng mình phân tích một chút ý sau nhé!
Câu gốc: the people who serve their customers, clients, and audiences in a meaningful and even profound way
Trong ý này thì có 2 thứ làm mình lấn cấn: thứ nhất đó là sự khác nhau giữa client và customer, thứ hai đó là meaningful and event profound way.
Trước đây mình toàn biết client và customer theo chung một nghĩa là khách hàng. Vậy thì sự khác biệt giữa hai từ này là gì? Trong khi customer khi những người mua hàng hóa thì còn client sẽ thiên về khách hàng cụ thể của một doanh nghiệp, nên client sẽ khá giống một đối tác. Mình cũng suy nghĩ 2 phương án dịch cụm customers and clients này thành khách hàng cá nhân và doanh nghiệp, hay sẽ dịch thành khách hàng và đổi tác. Sau khi suy xét thì mình chọn phương án 2.
Nếu dịch ý này theo từng từ thì sẽ có ý là: “những người phục vụ khách hàng, đối tác, và khán giả của mình một cách có ý nghĩa hoặc thậm chí sâu sắc”. Thế nhưng, dịch vậy thì có lủng cũng quá và người Việt không ai nó thế cả. Sau một hồi chỉnh tới chỉnh lui thì mình quyết định dịch thành: “những người mang đến cho khách hàng, đối tác và khán giả của mình một dịch vụ có ý nghĩa và thậm chí tạo nhiều dấu ấn.” Dù vẫn chưa thật sự ưng ý lắm nhưng tạm thời mình sẽ để như vậy.
